PHỤC HƯNG CỘNG ĐOÀN DO THÁI VÀ NHỮNG CHUẨN BỊ CUỐI CÙNG
(Sách Edra, Khacgai và Zacaria)
Bài trước chúng ta đã thảo luận về thời gian lưu đày vừa như một
hình phạt của tội lỗi mà Thiên Chúa dành cho dân bất trung, bội tín của Ngài
vừa như một thử thách hữu ích. Hồi Hương được trình bày như một cuộc xuất hành
mới mà Thiên Chúa qua việc tác động trên Vua Cyro, dẫn dân Ngài từ đất lưu đày
trở về Đất đã được hứa ban. Bài này thảo luận thế nào việc những người hồi
hương phục hưng quốc gia và tôn giáo của họ, những thanh luyện cuối cùng và
giai đoạn chót của mạc khải Cựu Ước.
1. PHỤC HƯNG CỘNG ĐOÀN DO THÁI
a. Phục hưng quốc gia
- Sau sắc chỉ của Vua Cyro, không phải tất cả dân Israel bị lưu
đày đều trở về quê hương. Không ít người trong số họ đã tìm thấy cuộc sống của
mình trên miền đất mới nên họ không tham gia đoàn người hồi hương.
- Những người hồi hương mang theo ước mong phục hưng lại quốc gia,
dân tộc và tôn giáo của họ.
- Lịch sử ghi lại 3 đợt hồi hương:
Đợt 1 xảy ra vào năm 538 ngay sau khi sắc chỉ của Cyro được ban
hành, dưới sự hướng dẫn của Zorobabel và một nhóm nhỏ (Edra 1,5-2,67). Công
việc của nhóm này, trước hết, xây một bàn thờ để tái lập lại các hy lễ công
khai dâng lên Giavê Thiên Chúa. Hai năm sau, họ bắt đầu tái thiết đền thờ nhưng
công việc dường như không đạt kết quả mong muốn (Edra 3) do những khó khăn cả
bên ngoài và bên trong (xem Khacgai 1,4; Edra 4,1; 2 V 17,24-28)[1].
Đợt 2 và 3 vào khoảng năm 520 TCN được dẫn dắt bởi Zerubabbel, một
viên chức chính quyền và thượng tế Joshua, được trợ giúp bởi hai ngôn sứ là
Khacgai và Zacaria (Edra 5,1), họ tiếp tục công việc tái thiết đền thờ. Kết quả
đền thờ đã được hoàn tất và cung hiến vào năm 515 TCN[2].
Sau đó, tường hành Giêrusalem cũng được hoàn thành dưới sự giúp đỡ của một quan
chức dưới triều vua Artaxerxes II là Nêhêmia. Công cuộc tái thiết đất nước đã
hoàn tất tốt đẹp.
b. Cuộc Phục Hưng tôn giáo do Edra và Nơkhêmia thực hiện: tập trung
vào việc học biết và thực hành lề luật; các sinh hoạt phụng vụ trong các cộng
đoàn, đặc biệt phụng vụ hội đường; giữ luật ngày Sabat, các vấn đề liên quan
đến hôn nhân dị giáo, khác đạo (Edra 9,1-4; 10,1-44; Ne 10,31). Đặc biệt hơn cả
là việc thiết lập Thượng Hội Đồng Tối Cao bao gồm Thượng Tế, Kinh Sư và Kỳ Lão
để lãnh đạo cộng đoàn.
Tuy được tự do về tôn giáo, dân Do Thái vẫn lệ thuộc đế quốc Ba Tư
về phương diện chính trị mãi tới năm 331 khi đế quốc Hy Lạp kiểm soát vùng đất
của họ.
2. THỬ THÁCH CUỐI CÙNG
a. Thảm họa mất đạo
Bắt đầu từ năm 198 TCN, sau khi dòng họ Xơlucô đánh bại dòng
Ptolemeo[3],
đã thực hiện chính sách Hy Lạp hóa. Lợi dụng sự chia rẽ giữa thành phần theo Hy
Lạp và những người trung thành với tôn giáo và lề luật của cha ông, Antiocho
Epiphane 4 (175-164) đã thực hiện cuộc bách hại tàn khốc: mở đầu bằng việc cướp
của đền thờ (1 Mac 1,16), dâng kính đền thờ ở Garizin và Giêrusalem cho thần
Zeus; cấm dân cắt bì; bắt dân phạm lỗi ngày Sabat và luật Môsê. Hơn nữa,
Antiocho cho dựng tượng thần trên bàn thờ tế lễ và các nơi công cộng trên đất
Do Thái và bắt dân dâng cúng thần ngoại. Ông cũng ra lệnh xé và đốt sách Luật.
Bất cứ ai vi phạm sẽ bị giết chết (2 Mac 10,5). Sách Macabe cho thấy tinh thần
đức tin của dân Chúa: sẵn sàng chết để trung tín với lề luật và truyền thống
của cha ông (2 Mac 6,18-31; 7,1-42).
b. Cuộc kháng cự vũ trang
Ban đầu là tư tế Matthia, nhưng nổi bật hơn cả là anh em dòng họ
Macabe. Giuđa Macabe dành chiến thắng, tiến vào Giêrusalem và dâng lễ thanh tẩy
đền thờ sau 2 năm kháng cự vũ trang. Gionathan tiếp tục cuộc chiến sau khi
Giuđa Macabe tử trận và đảm nhận chức Thượng tế và lãnh đạo cộng đoàn. Ông mở
rộng bờ cõi và xây dựng lại đất nước trước khi tử trận vào 143. Simon tiếp tục
đưa đất nước tới sự tự do hoàn toàn mãi cho đến năm 63 TCN, khi Pompe đem quân
tiến vào Palestine để giải quyết tranh chấp nội bộ giữa những người Biệt Phái
và Nhóm Saduceo và kết thúc quyền tự do chính trị của cộng đoàn Do Thái.
3. NHỮNG CHUẨN BỊ CUỐI CÙNG
a. Giá trị và giới hạn của lề luật
Ơn cứu độ là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa chứ không là
kết quả của việc suy tôn hay thực thi lề luật. Lề luật để giúp con người đi sâu
hơn vào mối quan hệ giao ước với Thiên Chúa như là “Chúa của dân và dân là dân
của Người” và với người khác như anh em, bởi đó, khi con người quá chú
trọng vào lề luật, coi lề luật như cứu cánh của đời sống đức tin, họ sẽ không
thể đạt tới sự công chính hoàn hảo là chính Thiên Chúa.
Cũng vậy, coi việc thực thi lề luật là phương thế đạt tới ơn cứu
độ, con người có nguy cơ quên mất hồng ân nhưng không và lòng từ bi xót thương
của Thiên Chúa. Chính nhờ những suy tư của các bậc khôn ngoan sau thời lưu đày
đã đưa tâm hồn và nguyện vọng của dân đi xa hơn những giới hạn của lề luật để
đạt tới sự công chính và lòng từ bi của Thiên Chúa.
b. Vấn đề thưởng phạt và sự sống đời sau
Đây là một tiến trình dài và có thể chia thành các giai đoạn như
sau:
Ban đầu người Do Thái chưa tin có sự thưởng phạt đời sau. Với họ,
sự thưởng phạt của Thiên Chúa diễn ra ở ngay đời này và là sự thưởng phạt tập
thể (Xh 20,5; Ds 16,32; 2 Sm 24; Gs 9). Bởi thế, mọi người, không phân biệt kẻ
lành người dữ, sau khi chết đều ở một nơi gọi là Sheol (Gv 9,10). Người khổ cực
coi đây như một sự giải thoát, trong khi người công chính đau khổ vì mình không
còn được ca tụng Thiên Chúa nữa (Tv 6,6; 115,17; 88,11-13). Tuy nhiên, quan
niệm này đối diện với vấn nạn rằng tại sao những người công chính lại bị chết
sớm, ví dụ, cái chết của vua Giosia (2 Sb 35,20) trong khi kẻ gian ác lại được
sống hạnh phúc (Khabacuc 1,13).
Sự thưởng phạt bây giờ là cá thể và thực hiện ở đời này. Hai tiên
tri (Gr 31) và (Ed 18) đã loan báo về một sự thưởng phạt cá nhân ngay ở đời
này. Tuy nhiên, sách các Thánh vịnh 128; 112; 127; sách Giop 21,7-15 và Giảng
viên 8,14 và 9,2 chỉ cho thấy những người công chính lại chịu đau khổ, bách hại
và cái chết trong khi kẻ dữ lại được hạnh phúc và phú quý giàu sang.
Câu trả lời cuối cùng chính là đau khổ, bất hạnh của người công
chính và hạnh phúc, giàu sang của kẻ ác chỉ là chóng qua ở đời này. Sự thưởng
phạt công bình tuyệt đối không ở đời này nhưng ở đời sau. Người công chính sẽ
được ban thưởng hạnh phúc đời sau còn kẻ gian ác sẽ bị khốn khổ trong “địa
ngục” (Hades) (xem các sách Thánh Vịnh, Macabe, Đaniel và Khôn Ngoan).
Kết luận
Cộng đoàn Do Thái sau hồi hương được củng cố không chỉ bởi kinh
nghiệm lưu đày mà còn được trải qua thử thách, bách hại tàn khốc dưới ảnh hưởng
của văn hóa Hy Lạp. Hơn thế nữa, nhờ tiếp cận với văn hóa và sự khôn ngoan của
Hy Lạp, niềm tin vào sự thưởng phạt của dân Chúa đã đạt tới đỉnh cao của nó.
Tất cả mọi chuẩn bị dường như đã sẵn sàng để “thời viên mãn” như ánh bình minh
đã ló rạng và Mặt Trời Công Chính từ chốn cao vời viếng thăm và cứu chuộc nhân
loại.
[1] Một vài người hồi hương bận tâm với những nhu cầu và sự
thoải mái của họ hơn là việc tái thiết đền thờ. Cũng có những chống đối từ dân
địa phương. Một nhóm quan trọng của những người hồi hương tuyên bố rằng công
việc tái thiết đền thờ đã có sự trợ giúp của Cyro và Cambyses. Nhóm khác được
nhận dạng như “những đối thủ của Giuđa và Bengiamin (Edra 4,1) đã dâng tặng sự
giúp đỡ của họ, khẳng định rằng họ cũng đã là những người tôn thờ Yahweh, mặc
dù họ đã định cự ở Miền Bắc Israel (2 V 17,24-28) bởi người Assiry, tuy nhiên,
dâng tặng của họ bị từ chối dứt khoát. Nhóm thứ ba được mệnh danh “những con
người của đất”, một kiểu nói trong khoảng thời gian này dùng để chỉ những người
Giuđa không bị đưa đi lưu đày. Họ cố gắng dùng ảnh hưởng của mình với triều
đình Ba Tư để phá vỡ công cuộc tái thiết (The Old Testament: A historical,
literary Introduction to the Hebrew Scriptures, Michael Coogan, 416-417).
[2] Đền thờ này thường được gọi là đền thờ thứ hai (Second Temple)
và “Khoảng thời gian của đền thờ thứ hai” trong lịch sử Do Thái kéo dài từ thế
kỷ 6 TCN đến năm 70 SCN – khi đền thờ Giêrusalem bị tàn phá. Đền thờ đầu tiên
được xây dựng bởi vua Salomon vào năm 966 và bị phá hủy bởi vua Nabucodonosor
vào năm 587 TCN. Hêrôdê Cả (37-4) đã cho kiến thiết lại cung thánh và tiền
đường vào năm 20-19 trước khi nó bị thiêu cháy bới quân lính Roma vào năm 70
SCN.
[3] Ban đầu, người Do Thái nằm dưới sự kiểm soát của dòng họ
Ptolemeo (323-200). Người Do Thái vẫn được tự do về tôn giáo như trước đây.
Trong khi dòng họ Xơluco lại thực hiện chính sách Hy Lạp hóa – bắt những dân lệ
thuộc phải từ bỏ nhận dạng của họ để sống như một người Hy Lạp, kể cả mặt tôn
giáo.
Lm Augustino Nguyễn Đức Lợi