Bài số 16
MỐI LIÊN HỆ GIỮA BỐ CỤC
(BỐN PHẦN) CỦA
SÁCH GIÁO LÝ & CÁC
NGHĨA CỦA THÁNH KINH
Để có thể thấy được mối liên hệ trên, trước
hết, chúng ta cần xem lại bố cục của sách GLHTCG và các nghĩa của Thánh Kinh.
1. Bố cục và ý nghĩa của Sách Giáo Lý của Hội
Thánh Công Giáo (x. GLHTCG, 3)
Mầu nhiệm đức tin Kitô giáo (như được thể hiện
trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo) được trình bày xoay quanh bốn trục
chính yếu: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN (chủ yếu dựa trên Kinh Tin Kính), CỬ HÀNH MẦU
NHIỆM KITÔ GIÁO (đặc biệt là bảy bí tích của Hội Thánh), ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC
KITÔ (cách riêng là Mười Điều Răn) và KINH NGUYỆN KITÔ GIÁO (nhất là Kinh Lạy
Cha).
Bốn phần trên liên kết với nhau cách một chặt
chẽ, nhằm trình bày một cách trung thành và có hệ thống đạo lý của Thánh Kinh,
Thánh Truyền, Huấn Quyền, cùng những gia sản thiêng liêng của các Giáo phụ, các
Thánh tiến sĩ và các Thánh nam nữ trong Hội thánh, và qua đó, Hội thánh thực
thi quyền và bổn phận được Đức Kitô ủy thác là loan báo và giúp cho dân Thiên
Chúa hiểu biết mầu nhiệm Kitô giáo cách tốt hơn và làm cho đức tin của các tín
hữu được kiện toàn, nghĩa là chẳng những tin mà còn yêu và luôn trung thành
bước theo Đức Kitô.
2. Các nghĩa của Thánh Kinh (x. GLHTCG: 113-118)
Theo truyền thống cổ xưa, Hội Thánh ghi nhận
có bốn nghĩa của Thánh Kinh; đó là: Nghĩa văn tự, nghĩa ẩn dụ, nghĩa luân lý và
nghĩa dẫn đường. Và vào thời Trung cổ, một câu thơ đã được sáng tác nhằm diễn
tả ý nghĩa của từng nghĩa này như sau: “Nghĩa văn tự dạy về biến cố, nghĩa ẩn
dụ dạy điều phải tin, nghĩa luân lý dạy điều phải làm, nghĩa dẫn đường dạy điều
phải vươn tới.”
Nếu như có một sự liên hệ chặt chẽ giữa bốn
phần của sách GLHTCG (như được nói trên), thì cũng có một sự hòa hợp sâu sắc
giữa các nghĩa của Thánh Kinh, nhờ đó giúp cho việc đọc Thánh Kinh được sống
động và tiếp cận tất cả sự phong phú của nó. Quả vậy, qua việc đọc Thánh Kinh,
ta không chỉ có thể nhận ra những công trình kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện
trong lịch sử nhân loại (như chính từng từ của Thánh Kinh nói lên – nghĩa văn
tự, hay nghĩa đen) mà còn giúp ta hiểu các biến cố ấy một cách sâu xa hơn khi
nhận ra ý nghĩa của chúng trong Đức Kitô (nghĩa ẩn dụ).
Thí dụ: cuộc vượt qua Biển đỏ là dấu chỉ của
Bí tích Rửa tội, dấu chỉ chiến thắng của Đức Kitô; Manna được ban trong sa mạc
báo trước mầu nhiệm Bí tích Thánh Thể; câu chuyện con con rắn đồng báo trước
mầu nhiệm Thập giá của Đức Kitô, v.v. Và hiển nhiên, việc chiêm ngắm các biến
cố được thuật lại trong Thánh Kinh phải dẫn ta đến hành động chính trực, nghĩa
là răn dạy và uốn nắn ta sống theo thánh ý của Chúa trong cuộc đời này (nghĩa
luân lý), đồng thời hướng ta tới hạnh phúc đích thật và vĩnh cửu trên Quê trời
(nghĩa dẫn đường).
3. Mối liên hệ giữa các phần trong sách GLHTCG và các
nghĩa của Thánh Kinh
Mối liên hệ giữa bố cục của sách GLHTCG và các
nghĩa của Thánh Kinh được thể hiện rõ nét trong thứ tự và ý nghĩa của mỗi phần
của sách giáo lý và mỗi nghĩa của Thánh Kinh. Quả vậy, nếu như nội dung đức tin
được trình bày xoay quanh bốn phần, thì Thánh Kinh cũng gồm bốn nghĩa. Nghĩa
thứ nhất của Thánh Kinh được xếp ngang hằng với Kinh Tin Kính (phần thứ nhất
của sách giáo lý). Cả hai yếu tố này đều có nghĩa diễn tả những sự thật đã
(hoặc sẽ) xảy ra (phán xét chung, sự sống lại của thân xác) trong lịch sử cứu
độ. Và nếu như nghĩa văn tự là nghĩa nền tảng, được trình bày trước các nghĩa
khác của Thánh Kinh, thì Kinh Tin Kính cũng phải được trình bày trước các phần
khác trong sách giáo lý. Thật vậy, giả như không có nghĩa văn tự thì không thể
có các nghĩa khác của Thánh Kinh; tương tự, nếu không có đức tin như được trình
bày trong Kinh Tin Kính, thì cũng không thể có phần giáo lý về các bí tích và
các nhân đức Kitô giáo, v.v.
Nghĩa thứ hai của Thánh Kinh (nghĩa ẩn dụ)
được coi là tương hợp với phần thứ hai của sách giáo lý (cử hành mầu nhiệm Kitô
giáo, đặc biệt là bảy bí tích). Quả vậy, nếu việc đọc Thánh Kinh giúp người ta
nhận biết Chúa Kitô, vì Thánh Kinh làm chứng về Người (x Ga 5,39), thì đức tin,
được trình bày qua Kinh Tin Kính, dẫn người ta tới gặp gỡ Chúa Kitô, đặc biệt
qua các bí tích được cử hành, nhất là Bí tích Thánh Thể. Cũng vậy, nghĩa thứ ba
của Thánh Kinh (nghĩa luân lý) thì tương đương với phần thứ ba của sách giáo
lý, vì cả hai điều này dạy người ta về đời sống luân lý, hướng dẫn và xây đắp
đời sống của Kitô hữu theo lời dạy và mẫu gương của Đức Kitô. Và nghĩa thứ tư
của Thánh Kinh (nghĩa dẫn đường) thì tương đương với phần thứ tư của sách giáo
lý (Kinh nguyện Kitô giáo, nhất là Kinh Lạy Cha). Cả hai hướng tâm hồn Kitô hữu
trông chờ và nuôi dưỡng niềm hy vọng được gặp Chúa diện đối diện trong Nước
Trời sau này.
Kết luận:
Có một mối liên hệ mật thiết giữa bốn phần của
sách giáo lý và các nghĩa của Thánh Kinh. Nội dung giáo lý và Thánh Kinh không
thể tách rời nhau. Quả vậy, qua công việc giáo lý, Hội Thánh thực thi quyền và
bổn phận huấn giáo của mình; đang khi đó, nguồn của giáo lý lại là Thánh Kinh,
như được gìn giữ và lưu truyền một cách đầy đủ và chính xác trong truyền thống
sống động của Hội thánh. Hiểu được các nghĩa của Thánh Kinh, các phần của sách
giáo lý, cũng như thứ tự của nó có thể giúp ta sống đức tin cách vững vàng và
trưởng thành hơn.
Lm. Anrê Lương Vĩnh Phú